(SGTT) - Đâu đó những vùng quê, vẫn còn có những ngôi nhà may mắn giữ lại được giếng nước kéo cần vọt (tiếng địa phương Phú Yên chỉ một cần tre dùng múc nước từ giếng đào lên). Từ giếng nước, có người xa quê nhớ xóm nhỏ thân thương.
- Thấm đượm hồn quê nồi cháo lươn xứ Quảng
- Đến Phú Yên, ghé thăm nhà cổ Quảng Đức Xưa
- Trải nghiệm làm “điền chủ” tại làng du lịch Mỹ Khánh
Hiện nay, trong những khu du lịch người ta phục dựng cần vọt xách nước giếng cũ bên bờ tre theo lối sống làng quê để tham quan. Giếng nước, bờ tre đầy ắp tình quê.
Thân thương giếng nước, cần vọt
Mười ngày như chục, trưa, tối, sau bữa ăn, bà Nguyễn Thị Hiền, ở khu phố 3, phường Hòa Vinh (thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên), bưng mâm chén đặt trên thềm giếng rồi thả cần vọt kéo nước xối ra thau rửa chén.
Theo bà Hiền, quen rồi, rửa nồi chà xoong đều ra thềm giếng. Bà về đây làm dâu hơn 20 năm xài cần vọt kéo nước, giếng nước cần vọt từ bàn tay ông cha chồng làm ra. Lúc đầu về làm dâu, trưa không ngủ tranh thủ ra thềm giếng ngồi dưới bóng tre giặt quần áo, chà quần mạng cho chồng. Hồi đó còn nghèo khổ quần rách ở đầu gối, chỗ ngồi, đem đến thợ may mạng lại cho lành. Quần mạng mặc đi đám tiệc, chớ không đi lao động.
“Hồi đó không chỉ nhà tôi mà cả dãy bảy, tám nhà gần đường Mạc Thị Bưởi (khu phố 3) đều có giếng nước, cần vọt. Đến bây giờ nhà còn có giếng nước nhà không xài nữa nhưng hình ảnh chiếc gàu, thềm giếng có mặt trọn vẹn trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của những con người miền quê”, bà Hiền nói.
Bà Huỳnh Thị Thanh Út ở cạnh nhà bà Hiền tâm sự: “Hồi trước nhà tôi xài giếng cần vọt, sau đó ba tôi sử dụng nước máy nên đổ tấm bê tông đậy nắp giếng. Giờ đây mỗi lần nghe tiếng xối nước vào ban tối, buổi trưa nhà bên cạnh âm thanh đó xao xuyến, làm tôi nhớ lại lúc trước”.
Mỗi lần rửa chén, kéo cần vọt lên xối vô thau cho đầy rồi kéo gàu nữa để trên thành bọng cổ. Bọng cổ là cái bọng trên cùng, rửa chén nước đầu tiên rồi xối gàu rửa nước thứ hai. Xài cần vọt rửa chén bát, xoong nồi, xối nước đã tay, bà Út kể.
Cũng theo bà Út, có thời gian bà lấy chồng sinh sống quê chồng, chồng mất bà mới quay lại quê cũ. Thời gian ở quê chồng hình ảnh giếng nước, cần vọt quen thuộc, thân thương ấy luôn cất giữ một góc quê hương trong trái tim mình.
“Tôi lớn lên, xa xóm quê theo chồng dạy học ở miền núi, nhưng trong lòng vẫn hoài nhớ cảnh nhà có giếng nước, cần vọt, phía trước có cánh đồng. Tiếng kéo cần vọt, nó như trở thành ký ức của tôi, tiếng xối nước nghe thôi thúc, đó là nỗi nhớ niềm thương nơi quê mẹ. Tôi nhớ cả trái đu đủ hườm cạnh giếng râm mát dưới bóng tre, nó gợi cho tôi nhớ về cái xóm nhỏ thân thương. Qua hỏi thăm bạn bè cũng lấy chồng xa quê, tôi nhận ra có rất nhiều người đi ra từ làng quê càng thấy yêu tha thiết quê hương qua giếng nước, bờ tre”, bà Út nói.
Giếng nước bờ tre… một cặp
Từ ngoài ruộng về, ông Lưu Sĩ, ở thôn Phú Xuân B, xã Xuân Phước (huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên) đi thẳng ra giếng thả cần vọt kéo gàu nước lên uống nước rồi vén ống quần xối nước rửa chân.
Theo ông Sĩ, giếng nước, cần vọt của nhà ông trên 50 năm. Hồi trước giếng nước sử dụng thời gian mùa nắng giếng khô cạn, sau đó ông đào sâu thêm thả bọng tiểu, giếng sâu ông chặt tre làm cần vọt múc nước. Giếng nước múc bằng gàu dây xách nửa thùng phuy nước là mỏi tay, còn kéo cần vọt đầy thùng phuy là chuyện bình thường, vì cần vọt có cây tre đực làm tay nắm, hơn nữa cần vọt có trợ lực phụ một tay kéo lên nhẹ nhàng.
Ông Sĩ cho hay, ở vùng nông thôn nhà nào cũng trồng tre làm hàng rào, ngăn cách lối đi. Cây tre công dụng đủ chuyện, ngoài làm cần vọt, chặt cây tre có nạng chống gậy cho cho cây chuối ra buồng.
Gần nhà ông có chòm đất trũng gọi là cái bàu trồng rau muống. Khi mỗi mùa thu hoạch lúa, cánh đồng trống bò thả ăn qua ăn lại, vậy nên qua mùa thu hoạch lúa ông chặt tre rào bàu rau muống ngăn bò lội xuống ăn rồi vá lại cái bờ ngăn giữa đám ruộng với bàu rau muống. Trời nắng mồ hồi đổ ra như tắm, trưa về đi thằng ra giếng kéo cần vọt lên để gàu trên thành giếng cúi xuống uống.
Năm nay sức khỏe của ông yếu, vừa rồi ông đi thăm bàu rau muống thấy bầy vịt siêu thịt ăn to, rúc cụt đọt cả dạt rau muống. Ông về hối con trai chặt tre rào lại rau muống. “Bụi tre đứng trước ngõ bao năm qua, tôi ra vào “biết mặt” từng cây tre. Tre vừa đủ lá là tre một năm dùng làm tre lạt dùng để buộc, cột.
Tre từ màu xanh ngã sang màu vàng là tre ba năm dùng làm đòn tay ngang. Tre lên nước màu đỏ là tre già chặt sát gốc làm trụ. Tôi hướng dẫn con trai chặt ba loại tre mà tôi chỉ mặt, vác lên đào lỗ trồng trụ rào nửa bàu rau muống. Ở miền quê giếng nước, bờ tre là một cặp”, ông Sĩ tâm sự.
Nhạc sĩ, NSND Cao Hữu Nhạc, nguyên Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc dân gian Sao Biển, cho hay họ tộc trong gia đình tôi ở thôn Lạc Nghiệp, xã Hòa Bình 1 (huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên) may mắn còn có giếng nước, cần vọt.
"Hôm rồi tôi về thăm quê, nhớ ngày xưa làm ruộng, hoặc làm soi về, mình ra ngay giếng kéo cần vọt xách nước. Ôi! Nước sóng sánh đầy gàu, giếng nước che mát bởi hàng tre mát sao mà mát dữ vậy không biết! Để gàu nước trên thành giếng uống ngập mặt vào gàu nước, đã ơi là đã, cảm nhận nước chạy từng luồng mát rượi rân rân trong người", ông nói.
Cũng theo NSND Cao Hữu Nhạc, hồi trước nhiều nhà ở miền quê có giếng nước, cần vọt. Có nhà kéo cần vọt xách nước bằng gàu nhôm, gàu tre. Về sau cuộc sống tiến lên, người nhà quê cũng bước vào dòng chảy hội nhập, xài nước từ nhà máy xả bằng van.
Nhưng nếu khéo để ý, vẫn thấy hình ảnh giếng nước, cần vọt, bờ tre, người ta phục dựng theo lối làng quê trong những khu du lịch dành để khách tham quan, làm lòng tôi lại bồi hồi xao xuyến. Giếng nước, cần vọt, bờ tre, hiện ra cảnh nông thôn, cho thấy mỗi người dân Việt luôn hướng về cội nguồn của văn hóa sống.
Mạnh Hoài Nam