THÙY DUNG -
Trên nhiều diễn đàn, tình trạng thất nghiệp ở lứa tuổi thanh niên cũng như thất nghiệp của lao động có bằng đại học trở lên được cho là đang ở mức báo động. Nghịch lý ở chỗ số người lao động thất nghiệp tăng lên nhưng về phía doanh nghiệp thì vẫn khó tuyển lao động.
Học cao rồi… thất nghiệp
Thực tế thừa thầy, thiếu thợ chất lượng, tay nghề cao đã được rất nhiều doanh nghiệp phản ánh thời gian qua. Trong ảnh: người lao động đang tìm hiểu thông tin tuyển dụng. Ảnh: Uyên Viễn
Trong buổi họp báo thông tin về thị trường lao động vừa qua, bản tin lao động quí 2-2015 với số liệu cập nhật mới nhất mà Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) thực hiện cho biết cả nước có hơn 1,4 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Trong số đó, có 607.800 người không có chuyên môn kỹ thuật, chiếm 53,1%, và 199.400 người có trình độ đại học trở lên, chiếm 17,4%.
Cũng theo số liệu quí 2, ngoại trừ nhóm có trình độ cao đẳng có tỷ lệ thất nghiệp giảm so với quí 1, từ 7,13% xuống 6,56%, còn lại tỷ lệ thất nghiệp ở các nhóm khác đều tăng; cụ thể nhóm có trình độ đại học trở lên tăng từ 3,29% lên 4,6%, nhóm có trình độ trung cấp tăng từ 3,66% lên 4,49% và trình độ sơ cấp tăng từ 2,05% lên 2,71%.
Theo bà Nguyễn Thị Lan Hương, Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội thuộc Bộ LĐTB&XH, tỷ lệ thất nghiệp ở lao động có trình độ đại học cao và liên tục tăng là do việc phân luồng giáo dục vẫn chưa hiệu quả khi mà hàng năm vẫn có khoảng ba phần tư số người theo học giáo dục đại học, trong khi nhu cầu thị trường chỉ cần 20%. Do đó, khi ra trường, nền kinh tế không thể đáp ứng được với thực tiễn thị trường lao động và lao động có bằng đại học sẽ ít có cơ hội việc làm hơn.
“Các nước có nền kinh tế tri thức thì người ta tập trung vào phân khúc đại học và trên đại học, còn mô hình nước ta là nền kinh tế công nghiệp thì chỉ nên tập trung vào giáo dục tầm trung”, bà Hương nói.
Bà Hương cho rằng về tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên và những người có bằng đại học, ngoài yếu tố cung-cầu còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng hội nhập của thanh niên vào thị trường lao động. Hơn nữa, nhiều người ra trường với tấm bằng đại học nhưng trình độ không tương xứng với tấm bằng đó mà vẫn mong muốn có được việc làm tốt. Do đó, thất nghiệp của lực lượng lao động này mang đặc điểm của thất nghiệp tự nguyện.
Cũng theo bà Hương, những năm gần đây, điểm sàn vào các trường đại học chỉ ở mức 12 điểm là quá thấp, bởi nếu với điểm sàn 12 thì sẽ không có chỗ cho giáo dục nghề nghiệp. Bà cho rằng nên quy định điểm sàn ở mức điểm 17 hoặc 18, vì nếu phân luồng không tốt sẽ tạo ra xung đột không cần thiết và dẫn tới lãng phí cho xã hội.
Thừa mà thiếu
Thực tế thừa thầy, thiếu thợ chất lượng, tay nghề cao đã được rất nhiều doanh nghiệp phản ánh thời gian qua. Ông Nguyễn Văn Hồng, Trợ lý Trưởng ban Nguồn lực nhân sự của Tập đoàn Prime, cho hay tỉnh Vĩnh Phúc nơi Prime đặt nhà máy là gần Hà Nội với nguồn nhân lực dồi dào nhưng phòng nhân sự của Prime phải làm việc “toát mồ hôi” mà vẫn không tìm được vị trí phù hợp. Điều này là do tâm lý các bậc phụ huynh chỉ muốn cho con em đi học đại học. Học nghề là con đường cuối cùng mà họ lựa chọn. Bên cạnh đó, các trường nghề rất chật vật để tuyển đủ học sinh.
Theo ông Hồng, đầu vào thấp thì không thể có đầu ra chất lượng được. Chính vì vậy, hiện Prime có 9.500 nhân viên nhưng tới 80% phải đào tạo lại, đặc biệt là về ý thức và tác phong làm việc.
“Chúng tôi chỉ có nhu cầu tuyển lao động có kỹ năng nghề trung cấp và cao đẳng nhưng có một núi hồ sơ ứng viên đã tốt nghiệp đại học xin vào công ty. Trên thực tế, có rất nhiều lao động tại Prime đã phải giấu bằng đại học để đi làm công nhân tại đây”, ông Hồng nói.
Không chỉ trong lĩnh vực sản xuất gạch ốp lát, vật liệu xây dựng như Tập đoàn Prime nói trên, mà nhiều lĩnh vực khác cũng đang “đỏ mắt” tìm nhân sự chất lượng. Bà Nicola Connolly, Tổng giám đốc Adecco Việt Nam, thành viên Hiệp hội Công ty nhân sự Việt Nam, cho hay theo dự báo ngành du lịch Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng tích cực và chuyển trọng tâm từ phát triển số lượng sang chất lượng tới năm 2020. Điều này có nghĩa rằng ngành du lịch sẽ tập trung vào các dịch vụ sang trọng để đáp ứng nhu cầu cao cấp của nhóm khách hàng thường xuyên có những chuyến du lịch dài ngày. Theo tính toán, Việt Nam cần hơn 2,1 triệu nhân lực cho ngành du lịch trong năm 2015 và gần 3 triệu trong năm 2020.
“Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ này đều cho rằng đa số các doanh nghiệp đều không kỳ vọng sẽ có đủ nguồn nhân lực có chất lượng, như trình độ ngoại ngữ, thái độ làm việc cũng như các kỹ năng mềm khác…”, bà Nicola Connolly nói.
Theo Adecco, để phát triển hệ thống giáo dục và giảm tỷ lệ thất nghiệp, nghiên cứu của Adecco cho thấy hệ thống giáo dục nghề nghiệp dựa vào công việc mà các nước như Thụy Điển, Đức và Úc đang áp dụng là hiệu quả nhất. Mô hình này đặc biệt nhấn mạnh tới những khóa học ngắn hạn cũng như thời gian thực tập tại các doanh nghiệp.
Với công nghệ hiện đại và thay đổi nhanh chóng, rất khó để các trường đại học cũng như các trường nghề có thể bắt kịp được xu hướng công nghệ mới. Điều này sẽ dẫn tới việc sinh viên sau khi ra trường không đáp ứng được yêu cầu công việc. Do đó, khá nhiều công ty hiện nay đã chung tay cùng các trường đại học, các học viện và trường nghề để định hình chương trình giảng dạy nhằm đảm bảo những sinh viên sau khi ra trường sẽ có những kiến thức và kỹ năng cần thiết, đáp ứng được yêu cầu công việc. Đồng thời, sau khi sinh viên ra trường, sẽ được tuyển thẳng vào những doanh nghiệp đã chung tay đào tạo mình. Theo kinh nghiệm của các nước, mô hình này giảm được đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên.
Tuy nhiên, theo Adecco, để thu hút doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, ngoài những ưu đãi đặc biệt về thuế, đất đai…, Nhà nước cần có những quy định về cơ chế phối hợp giữa doanh nghiệp và trường đại học để có cơ chế tuyển dụng đối với những sinh viên chất lượng cũng như phải có cơ chế hiệu quả để buộc sinh viên sau khi ra trường phải làm việc tại doanh nghiệp mà họ tham gia giảng dạy.